Triết lí cái đình

Một người theo công giáo là linh mục Kim Định đã có một chuyên khảo mang tên “Triết lý cái đình” (1971, Nguồn Sáng, Sài Gòn), trong đó có câu: “Riêng Đình là chú ý ngay vào đời sống hiện tại ở đây và bây giờ”. Ở khía cạnh đề cao cái đình, Kim Định có cùng ý kiến của nhiều học giả XHCN. Đình là đặc thù của làng xã Việt Nam, của tinh thần cộng đồng có màu sắc dân chủ, dù là đại diện của triều chính tại địa phương. Cái đình có giá trị thực tiễn về chức năng, nơi làng họp nhau khi có việc, nhưng ở cấp độ cộng đồng, khác với công môn là nơi làm việc của quan lại.

Đấy là mặt chức năng. Còn hình thức đình làng, có lẽ đây là một đặc trưng kiến trúc truyền thống, mà tương ứng có thể kể nhà rông, nhà dài Tây Nguyên. Nhưng cũng như nhà rông, nhà dài thì đình hiện giờ đang mất. Cái mất không những về hình hài được trùng tu mới coóng dỡ sạch cái nguyên bản đi, mà còn về chức năng sử dụng – các công việc diễn ra ở đình chủ yếu mang tính phục vụ lễ lạt, vừa hạn chế người dùng, vừa yếu về kết nối hệ thống. Cái đình xưa là niềm tự hào của các làng, thường là kiến trúc to nhất của làng, đem ra đọ với làng khác. Bao nhiêu cái hay cái đẹp đều tạc vào đình. Đình bây giờ là pháo đài cố thủ của các cụ với cái nhìn lo âu về vị thế của thế hệ của họ sắp mất dần.

Các nhà nghiên cứu kiến trúc và mĩ thuật đã có nhiều tài liệu về đình Việt Nam. Tuy nhiên, với số đông, cái đình khá đơn điệu về cấu trúc và na ná nhau về hình thức nên họ không quan tâm nhiều bằng các kiến trúc tôn giáo như đền, chùa, miếu, phủ… Nhất là sự tham gia hoạt động của họ ở đình gần như hạn chế chỉ trong vòng những ngày hội làng mà họ cất công tới xem – phải nói là hội làng cũng thường… na ná nhau. Trong khi đó, vào chùa còn xem tượng, xin quẻ, vào đền còn cầu khấn rồi hầu bóng. Sân đình bây giờ cũng không còn là sân khấu hấp dẫn để biểu diễn chèo nữa. Với lại teen có xem chèo đâu?

Nên cái đình cũng dường như là hình ảnh của một nền văn hóa truyền thống bị mờ đi, yếm thế và có khi còn là suy đồi. Có người đề xuất tích hợp đình với nhà văn hóa làng, nhưng chuyện này đã từng làm bốn chục năm trước, mà kết cục là phá nhiều hơn giữ. Cái đẹp của đình làng lay lắt ở những hình mái đao, chạm trổ rồi khung cảnh bình dị xung quanh khi may chăng còn lại.

Chắc sẽ là một bài lan man không dứt, bởi vì cái đình không là một hình ảnh hấp dẫn, sống động. Nó chỉ khiến người ta thấy thân thương khi nó gắn kết với kỷ niệm, với nhận thức của họ về thời yên ấm đã qua:

Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu

Chắc có lẽ tôi bị ảnh hưởng bởi những bài giảng và sách vở nên vẫn giữ mãi tình cảm với ngôi đình truyền thống: Một ngôi nhà sàn chạy dài, mái đao lớn xòe bốn góc thật to, hình chữ nhất hoặc có chuôi vồ (chữ công), như một khối nâu sẫm đứng giữa làng cây xanh, đồng rộng bao quanh.

Đình làng Việt có gần như khắp các làng, từ Bắc vào Nam có cả. Tuy vậy tập trung và đồng đều về phong cách kiến trúc thì ở vùng Bắc Bộ cho đến Thanh- Nghệ. Câu Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài cho thấy vùng phía Tây Hà Nội là nơi có nhiều đình đẹp nhất từ xưa. Hiện tại, đình vùng Hà-Tây cũng vẫn là nơi phong phú nhất, ngoài ra vùng Hà Bắc cũng giữ được nhiều đình đẹp.

Dưới đây là một số ngôi đình và hình ảnh đi từ Tây sang Đông Bắc Bộ.

1. Đình Tây Đằng, ở thị trấn Tây Đằng (Quảng Oai cũ), huyện Ba Vì, là ngôi đình có niên đại thuộc vào loại sớm nhất VN, khoảng đầu thế kỷ 16, nhưng có nhiều chạm khắc mang hình thức đời Trần nên có lẽ được lấy từ một kiến trúc sớm hơn. Ngôi đình có niên đại được xác minh rõ ràng sớm nhất là Lỗ Hạnh ở Đông Lỗ, Hiệp Hòa, Bắc Giang – năm 1576. Tuy vậy, trừ những điêu khắc đã xuống cấp thì hình thức ngôi đình còn lại không mấy hấp dẫn, có lẽ đã bị phá dỡ nhiều lần. Tuy nhiên, trùng tu như đình Tây Đằng dưới đây thì lại quá mới!

Còn giữ được một số chạm khắc ở đầu bảy. Chạm khắc ở đình Tây Đằng rất đặc sắc, nhiều cảnh sinh hoạt dân gian thú vị như hứng dừa, đá cầu… Đình Tây Đằng trước đây có lẽ cũng có sàn cấp, nhưng đã dỡ bỏ. Ngôi đình chỉ có tòa chữ nhất và không che chắn nên thoáng. Hai dãy giải vũ có đặc biệt là có lầu mái chồng diêm. Cách đây nhiều năm, ấn tượng của mình là một ngôi kiến trúc cởi mở và đậm chất phóng túng của miền Ba Vì – Sơn Tây.

Trên đây là một bức tranh bột màu vẽ năm 1998. Khi đó còn vào được bên trong, bây giờ người ta xây tường bao kín, làm cổng sắt khóa!

2. Đình Chu Quyến, ở xã Chu Minh, Ba Vì, cách Tây Đằng 3km về phía Hà Nội. Đình này tôi đã giới thiệu ở entry trước đây ở blog cũ (Ngôi đình đẹp nhất VN). Đình xây chữ nhất, có hình thức nhà sàn, dựng từ thế kỷ XVII, to đẹp, mộc mạc và khỏe khoắn, đặc trưng cho thẩm mỹ dân gian xứ Đoài. Hiện đã dỡ ra trùng tu lại.

Một bức tranh bột màu năm 1998 thì phải. Đáng tiếc là tôi đã để mưa làm hỏng.

3. Đình Mông Phụ, ở làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, Ba Vì. Ngôi đình này cũng có niên đại khoảng thế kỷ XVII-XVIII, nằm trong quần thể làng cổ nên là điểm nhấn đặc biệt của không gian làng. Các chạm khắc cũng quen thuộc, nhà sàn và thông thoáng các mặt. Đình có hình chữ công, phần chuôi vồ là hậu cung. Đợt trùng tu vừa rồi gây nên hình ảnh tức cười là gạch lát sân quay mạch dọc đâm vào đình; ngói lợp dồn hết ngói cũ sang một bên, ngói mới phần còn lại, chia đôi diện mái thành hai mầu như lang ben. Người dân ở làng không hài lòng chút nào nhưng đình giờ là của nhà nước chứ không còn là của riêng làng xã nữa!

4. Đình Đoài Giáp, ở thôn cùng tên, thuộc xã Đường Lâm, Ba Vì. Đình nhỏ nhưng cũng có hình thức cân đối, đặc thù của đình Đoài.

5. Đình Hữu Bằng, ở xã Hữu Bằng, Thạch Thất là ngôi đình lớn, nằm trong khu vực đình-chùa-miếu của làng xã. Hữu Bằng gần chùa Tây Phương, là làng nghề gỗ mỹ nghệ, thợ làng chuyên làm đình chùa. Vì thế dễ hiểu là các kiến trúc cổ ở đây có quy mô lớn.

Tổng thể nhìn ra một ao nước hình tròn rộng.

Ngôi đình nằm ở bên trong cùng, qua một sân rộng là đến chùa và miếu.

Nhìn sang chùa từ phía đầu hồi đình.

Tòa đại đình rất to nhưng mặt đứng bị hai dãy giải vũ che chắn mất nên cảm giác chật chội.

Đình có đặc biệt là có một gian thờ phụ ở chái nhà.

Những đồ gỗ bên trong rất trau chuốt và thẩm mỹ cao.

Nhìn từ đầu hồi mới thấy được dáng đồ sộ.

Toàn cảnh mặt bên. Đình có mặt bằng hình chữ công, hậu cung xây hẳn chồng diêm, vốn không thấy ở các đình khác. Sắc nâu của ngôi đình khiến như kiến trúc có một triết lý về thẩm mỹ vật liệu: gạch ngói và gỗ đều nhất quán màu. Tường gạch cũng chỉ vôi trắng.

6. Đình Dị Nậu, Thạch Thất. Đình không nhiều chi tiết tinh xảo nhưng có những nét đáng lưu ý vì mang phong cách y hệt nhiều ngôi đình khu vực này – một nhà tiền tế mái chồng diêm phía trước, tòa đại đình hình chuôi vồ phía sau.

7. Đình Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp, là ngôi đình được xem như to nhất trong mẫu đình vùng như Dị Nậu, Canh Nậu, Liên Hiệp. Nhà tiền tế có các trụ đá, chạm khắc công phu phong cách thời Nguyễn. Tòa đại đình có các chạm khắc tuyệt hay về các chủ đề như tiên múa, chuốc rượu, đánh cờ, đấu vật, rình xem gái tắm… Tuy nhiên, khi tôi đến thì ông trông đình không cho chụp mà yêu cầu hôm sau quay lại để xin ý kiến cụ trưởng ban. Hôm sau thì chưa biết là hôm nào!

Trên là đình Liên Hiệp, một đình khác ở làng bên cạnh, quy mô nhỏ hơn.

Một bài thơ có tên “Cho ngày hội cầu lông” trên tường tòa giải vũ ở đình Dị Nậu:

Em đây tên gọi cầu lông
Xin chào các bạn thôn đông, thôn đoài

Hình thức hai bể sen đá này có ở khắp các đình khu vực. Hàng chữ nho được một cụ ở đình Hạ Hiệp đọc – được ghi là năm Tự Đức thứ mấy gì đó.

8. Đình Thụy Khuê ở làng Thụy Khuê, xã Sài Sơn, Quốc Oai. Đình này ngay cạnh chùa Thầy, có đặc trưng lối vào từ đầu hồi của chuôi vồ, nghĩa là mặt bằng chữ công ngược.

9. Đình So ở làng Yên Sở, xã Cộng Hòa, Quốc Oai. Tôi đã giới thiệu ở entry Quốc Oai trên blog cũ.

10. Đình làng này ở xã Tiên Phương, Chương Mỹ, gần chùa Trăm Gian.

11. Về đến mạn Phùng thì có đình Đại Phùng nổi tiếng. Nằm ngay đầu làng nên cũng cạnh một cái chợ.

Ngôi đình đẹp nhưng cũng xuống cấp nhiều. Có cấu trúc nhà sàn và phía trước có tiền tế làm thành hình tiền nhất hậu công. Những mái đao mềm mại thật đẹp.

Tiếc là khóa trái nên chỉ thò được máy ảnh vào chụp vọng. Những chạm khắc và nội thất khá đẹp.

12. Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy / Vui thì vui vậy, chẳng tầy rã La. Đăm là tên nôm của làng Tây Tựu, Từ Liêm. Đình Đăm có kiến trúc kiểu thế kỷ 19, nhưng đã xuống cấp nhiều. Không gian rộng và có nhiều tòa kiến trúc lẻ.

Phía trước là tam quan và hai nhà mộc dục (nhà bia) kiểu phương đình chồng diêm, mái vuông. Hai bên có tả hữu vu, hiện làm quán chợ.

Qua khoảng sân là đến hai nhà phương đình nữa và tiền tế ở giữa. Sau cùng là đại đình.

Bỏ qua Hà Nội, có một số đình như Yên Phụ, Kim Liên, Nghi Tàm, Quảng An chưa có điều kiện phân tích, sang Bắc Ninh.

13. Đình Phú Thụy, Gia Lâm, vốn là đất kẻ Sủi, quê Cao Bá Quát. Ngũ môn này có cái đẹp là do điêu tàn, thật nghịch lý.

14. Đình Đình Bảng thì nhiều người biết, và tôi đã có entry về Bắc Ninh ở blog cũ rồi. Đình xây năm 1732, là ngôi đình loại lớn nhất VN hiện còn. Đình đạt tới vẻ đẹp cổ điển và hoàn hảo.

15. Đình Diềm cũng đã nói tới rồi, ở làng Viêm Xá, Yên Phong, Bắc Ninh, nơi có đền Bà Thủy tổ Quan họ. Thứ nhất là đình Đông Khang. Thứ nhì Đình Bảng, vẻ vang đình Diềm. Đình Diềm tuy bé vì chỉ có 3 gian nhưng nội thất cực đẹp và khung cảnh làng Diềm còn giữ được kiến trúc đồng đều, rất nên thơ.

16. Đình Cổ Mễ ở ngay cạnh đường vào đền Bà Chúa Kho.

17. Đình Mỹ Lộc ở xã Mỹ Hà, Lạng Giang, Bắc Giang. Gần đấy có đình Phù Lão, chắc sẽ tìm cách đi thăm sớm.

18. Đình Tiên Lục, nơi có cây dã hương to nhất VN. Đình có tường bao xây bằng gạch nung già, nhìn rất đẹp. Hai đình này đã giới thiệu ở entry Bắc Giang.

Lẽ ra các đình ở Vĩnh Phúc cũng thuộc về xứ Đoài nhưng để tiện đường thời bây giờ, xếp xuống dưới.

19. Đình Hương Canh, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Ai về mua vại Hương Canh – làng này chuyên làm chum vại và đồ gốm sành. Ngôi đình cũng khá lớn, tuy vậy chỉ chụp được bên ngoài.

20. Đình Quất Lưu, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc cũng có nghề gốm sành. Có thể thấy dấu ấn của thời biến đình làng thành hợp tác xã. Gian giữa xây thêm một mặt đứng kiểu cổng chào, năm 1964.

Bên cạnh là ngôi chùa. Màu gạch đậm nhạt xen kẽ ở đầu hồi thật đẹp.

21. Đình Phú Hậu, xã Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Đã giới thiệu ở entry Quê nghèo. Chỉ còn cái cổng đặc biệt này.


Nguồn: truongquy.blogspot.com

QUỐC OAI MỘT ĐỊA DANH NÊN CHỌN LÀM TRUNG TÂM HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Tác giả: Tom_xp – Ban nghiên cứu Phong thủy Lạc Việt
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu Lý Học Đông Phương

Lịch sử đã chứng minh rằng: Hoàng đế Lý Công Uẩn chọn đất Thăng Long làm kinh đô từ 1000 năm trước, đã mở đầu cho trang sử hào hùng, thịnh vượng của dân tộc và đất nước, đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển hàng muôn đời sau.

Kinh đô Thăng Long xưa có vị trí tối ưu về phong thủy, xét cả về hình – lý – khí với sông tụ, núi chầu, địa hình rộng rãi bằng phẳng, thời điểm vua Lý định đô lại được cả Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa, các nhà phong thủy xưa nay đều nhất trí như vậy.

Theo quy luật của tự nhiên: phát triển rồi lụi tàn rồi lại phát triển – vạn vật đều phải tuân theo quy luật ấy, cho dù là một vùng đất, một quốc gia hay một bông hoa cũng vậy.

Thử xem xét sự phát triển của vùng đất Thăng Long xưa – với tâm điểm là khu vực Hoàng Thành cũ – theo trục thời gian qua các yếu tố của phong thủy, ta có một số nhận xét sau:

– Bắt đầu từ lúc Cao Biền mở rộng thành Đại La – tên cũ của đất Thăng Long, hình thể đã có, nhưng khí mạch do sông Hồng đem tới, mới chỉ bắt đầu tụ ở khu vực Đại La nơi hữu ngạn sông Hồng. Nhưng khí tụ chưa đủ mạnh, cho nên Cao Biền đã phải dùng biện pháp trấn yểm hết sức tàn độc để giúp khí tụ mạnh và nhanh hơn. Xét về Âm khí do dãy núi Ba Vì đem lại: thời gian này Âm khí từ Ba Vì khá mạnh mẽ, thể hiện ở chỗ rừng núi hoang sơ vẫn bao phủ khắp nơi, ngòi đầm chi chít. Vùng Đại La cũng vậy.

– Gần 200 năm sau, cùng với thời gian Dương khí vùng này ngày càng tụ mạnh hơn (việc trấn yểm của Cao Biền cũng giúp khí tụ nhanh hơn), sự cân bằng Âm – Dương giữa Dương khí (từ sông Hồng) và Âm khí (từ dãy núi Ba Vì) cũng trở nên cân bằng hơn. Do vậy, khi Đức vua Lý Công Uẩn tiến hành xây dựng kinh đô tại đất Thăng Long thì Dương khí đã vượng, lại hội đủ Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa nên Thăng Long nhanh chóng phát vượng. (Vùng vượng khí nhất của vùng đất được thể hiện bằng vòng tròn tô đỏ trên bản đồ).

– Càng về sau, Dương khí ngày càng vượng, cộng hưởng với sự phát triển của xã hội, nên Dương khí lan tỏa ra các vùng xung quanh (thể hiện bằng các mũi tên màu đỏ).

– Cùng với sự phát triển của xã hội, khi những cây cầu xuất hiện, sự tương tác giữa hai bờ càng trở nên mạnh hơn. Một phần Dương khí được chuyển sang phía bờ tả sông Hồng, do sự tương tác trong sinh hoạt của cộng đồng dân cư, khiến Dương khí vùng bờ tả cũng vượng lên. Dương khí càng có điều kiện lan tỏa hơn sang khu vực bờ tả sông Hồng (thể hiện bằng các mũi tên màu cam).

– Cân bằng Âm Dương – theo quan niệm của Phong thủy – là yếu tố quyết định quan trọng đến sự phát triển của xã hội. Khi vùng trung tâm (thể hiên bằng vòng tròn đỏ) Dương khí quá vượng, Âm khí thoái thì các yếu tố sinh Âm khí xuất hiện giúp cân bằng Âm – Dương, ví dụ nhịp sống trong khu vực sẽ chậm đi, kinh tế, văn hóa ngưng phát triển – cái tịnh thuộc Dương sẽ sinh Âm động để cân bằng lại.

– Phát triển rồi lụi tàn rồi lại phát triển vốn là quy luật tự nhiên, mọi vùng đất hay suy rộng ra là mọi quốc gia đều phải tuân theo. Vùng đất trung tâm Thăng Long cũng vậy, hiện tại đã qua thời kỳ cực vượng và đang bắt đầu đến độ suy tàn – do Dương khí quá vượng. Muốn vùng trung tâm vẫn giữ được sự phát triển về kinh tế, văn hóa ở mức tương đối cần có những biện pháp thích hợp.

Thủ đô cũ với khu trung tâm nhỏ hẹp, chật chội và luôn trong tình trạng Dương khí quá vượng dẫn đến mất cân băng Âm – Dương (phải chăng vì thế mà người dân sống trong khu vực này thường có xu hướng nóng tính, vội vã). Cải tạo khu trung tâm cho phù hợp với sự phát triển của đất nước theo tiêu chí phong thủy không mấy khả thi, xét về mặt kinh tế, xã hội càng tốn kém hơn. Do vậy việc mở rộng địa giới Thủ đô, biến khu trung tâm cũ thành một khu vệ tinh trong mạng lưới phát triển của Thủ đô là một quyết định sáng suốt.

Bây giờ, ta thử đi tìm vị trí tối ưu để đặt Trung tâm hành chính Quốc gia theo tiêu chí phong thủy.

Như đã phân tích ở trên, Dương khí do sông Hồng mang lại tích tụ chủ yếu ở bờ hữu, nơi tụ khí nhất vẫn là khu vực Hoàng Thành cũ, cùng với thời gian vùng Dương khí ngày càng phát triển và lan tỏa ra xung quanh, tương ứng với Âm khí từ các dãy núi – chủ yếu từ dãy núi Ba Vì ngày càng thu hẹp. Ta có thể thể hiện một cách định tính những vùng vượng khí và cân bằng Âm – Dương khí bằng dải màu hồng, qua đó ta thấy vùng vượng khí tập trung thành dải giới hạn bởi hai con sông sông Can và sông Đáy. (Song song với sông Đáy còn có sông Nhuệ, nhưng vì dòng chảy sông Nhuệ quá thẳng nên không tích tụ được khí).

Trên cơ sở này, chúng ta nhận thấy khu vực vượng khí hơn cả là khu thị trấn Quốc Oai và khu thị trấn Chúc Sơn. Xét về địa hình: hai khu vực này khá rộng rãi, bằng phẳng.

Huyện Quốc Oai có hai địa danh đáng chú ý là Chùa Thầy và khu vực núi Sài Sơn, đây là hai long huyệt đang phát mạnh mẽ, một người nhạy cảm đi qua khu vực này sẽ cảm nhận được vượng khí nơi đây qua không khí, cây cỏ …

Huyện Quốc Oai có hình dáng một con gấu đang nằm, mặt hướng về hồ Tây. Đầu con gấu là khu vực núi Sài Sơn – một địa linh – rất tiếc nó đang bị nhà máy xi măng Sài Sơn phá hủy.

Huyện Chúc Sơn có hình vuông, thuộc thổ hình, nơi thu hút của Ngũ hành và cân xứng 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.

– Định tâm địa giới Thủ Đô – theo Phong thủy Lạc Việt – thì tâm sẽ nằm ở xã An Thượng.

Như vậy khu vực trung tâm huyện Quốc Oai thuộc Tây tứ trạch, còn trung tâm huyện Chúc Sơn thuộc Đông tứ trạch. Cả hai vùng đều thuộc khu vực trung cung.
Xét tính đồng khí thì khu trung tâm Quốc Oai + khu hồ Tây + khu trung tâm Phú Xuyên + khu đô thị công nghệ cao Láng Hòa Lạc thuộc tây tứ trạch.

– Khu trung tâm Quốc Oai thuộc tây trạch, nằm ở cung Càn. Khu trung tâm Chúc Sơn thuộc cung Ly.

Từ các phân tích trên ta thấy khu trung tâm huyện Quốc Oai (thị trấn Quốc Oai) có nhiều ưu điểm hơn cả:

– Xét theo bát trạch, khu vực này thuộc Trung cung, lại nằm về cung Càn so với tâm. Cung Càn tượng Quý nhân, người Cha, người Lãnh đạo nên rất thích hợp là nơi đặt trung tâm Hành chính Quốc gia – nơi đưa ra các quyết định điều hành đất nước.

– Khu vực này hiện đang là một trong hai khu vượng khí nhất và khá cân bằng giữa Âm và Dương khí.

– Vị trí địa lý hài hòa giữa một bên là dãy núi Ba Vì và một bên là sông Hồng. Thuận thế “Tiền cái hậu đê”, Tả Thanh Long, Hữu Bạch hổ. Vị trí có thế tựa lưng vào dãy Ba Vì, trước mặt là hồ Tây với minh đường rộng rãi với khí tụ xung mãn.

– Xét về hình thể: huyện Quốc Oai có hình một con Gấu – (Về hình thể, chúng tôi liên tưởng đến liên bang Nga cũng có hình một con Gấu – và người Nga luôn tự hào về điều đó!). Ứng với “thanh” gọi Quốc Oai được định danh từ xưa – Phải chăng ông cha ta đã ngầm nhắc nhở sự vinh danh và phát triển cho đời sau ở vị trí này. Nếu trung tâm hành chính Quốc gia đặt ở đây sẽ rất có ý nghĩa: Quốc gia oai hùng!

– Xét về điều kiện kinh tế địa lý thì cự ly từ vị trí này đến các vùng khác của Thủ Đô tương đương nhau, thuận tiện cho việc bố trí các mạng lưới giao thông, tạo điều kiện phát triển đồng đều cho các vùng.

Như vậy đặt Trung tâm hành chính Quốc gia tại thị trấn Quốc Oai là hợp lý về mặt phong thủy và địa lý kinh tế.

Trường hợp chuyển Trung tâm HCQG về đây thì nhà máy xi măng Sài Sơn cần di dời đi nơi khác để tránh phá hủy một linh huyệt gần Trung tâm.

Chính phủ mở triển lãm Quy hoạch Thủ Đô nhằm tranh thủ ý kiến người dân về việc quy hoạch Thủ Đô trong tương lai & đã tạo lên một sự quan tâm rất lớn từ nhiều tầng lớp người dân trong cả nước.

Hưởng ứng với sự đóng góp ý kiến chung. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình, từ góc nhìn của Phong thủy Lạc Việt, nhằm thể hiện tấm lòng với đất nước.

Rất mong được anh chị em có ý kiến đóng góp.

Tom_Xp

PHỤ LỤC: BẢN ĐỒ VỆ TINH VÙNG QUỐC OAI

Giới thiệu huyện Quốc Oai – thành phố Hà Nội

Quốc Oai là một huyện phía Tây của thủ đô Hà Nội. Trước tháng 8 năm 2008, Quốc

Huyện Quốc Oai
Địa lý
Trực thuộc thành phố: {{{thành phố cấp trên quận}}}
Trụ sở Ủy ban Nhân dân: Thị trấn Quốc Oai
Vị trí: phía Tây Hà Nội
Diện tích: 147 km²
Số phường: 1 thị trấn và 20 xã
Dân số
Số dân: 163.355[1]
Mật độ: 1111 người/km²
Thành phần dân tộc: Chủ yếu là Kinh
Hành chính
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân:
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân:
Bí thư Quận ủy: {{{QU}}}
Thông tin khác
Điện thoại trụ sở:
Số fax trụ sở:
Website: {{{Website}}}

Oai thuộc tỉnh Hà Tây.

Địa lý

Vào năm 2009, huyện Quốc Oai có diện tích 147 km². Dân số 163.355 người[1].

Huyện Quốc Oai có 20 xã: Phú Mãn, Phú Cát,Hoà Thạch, Tuyết Nghĩa, Đông Yên, Liệp Tuyết, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Cấn Hữu, Nghĩa Hương, Thạch Thán, Đồng Quang, Sài Sơn, Yên Sơn, Phượng Cách, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hoà, Cộng Hoà, Đông Xuân.

Thay đổi hành chính

Trước đây là trấn, rồi phủ Quốc Oai, gồm các huyện Đan PhượngTừ LiêmThạch Thất, Yên Sơn, Phúc Lộc (sau là Phúc Thọ). Năm 1831 tách huyện Từ Liêm về Hà Nội. Năm 1888, sau khi tách huyện Đan Phượng về phủ Hoài Đứcthuộc tỉnh Hà Đông mới lập, phủ Quốc Oai chuyển thành huyện Quốc Oai thuộc tỉnhSơn Tây. Từ năm 1965 thuộc tỉnh Hà Tây, đến năm 1975 thuộc tỉnh Hà Sơn Bình. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 7 xã của huyện Quốc Oai là Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận, Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú và Đại Thành nhập vào thủ đô Hà Nội, trong đó 4 xã (Cộng Hòa, Tân Hòa, Tân Phú, Đại Thành) nhập vào huyện Hoài Đức, 3 xã còn lại (Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận) nhập vào huyện Phúc Thọ, đều thuộc Hà Nội (Quyết định của Hội đồng Chính phủ ngày 17 tháng 2 năm 1979). Phần còn lại của huyện Quốc Oai vẫn ở lại tỉnh Hà Sơn Bình với tên gọi huyện Quốc Oai. Từ 12 tháng 8 năm 1991 huyện Quốc Oai lại trở về với tỉnh Hà Tây. Các xã trước kia thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội cũng chuyển về huyện Quốc Oai. Riêng 3 xã Tam Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thuận vẫn thuộc huyện Phúc Thọ. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Quốc Oai được nhập về thủ đô Hà Nội, và tiếp nhận thêm xã Đông Xuân từ huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình về theo quyết định của HĐND Thành phố Hà Nội mới (mở rộng). Ngày 8 tháng 5 năm 2009, toàn bộ xã Đông Xuân được chuyển vào huyện Quốc Oai.

Văn hóa, cảnh quan

Cảnh trí đẹp, bình yên và nên thơ, thể hiện trong thơ của nhà thơ quê hương xứ Đoài – Quang Dũng:

Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều vi vút thổi đêm trăng…

Quốc Oai nổi tiếng với Chùa Thầy, nơi hàng năm có hàng ngàn du khách sắp mọi nơi tới vãn cảnh, với câu nói “Chuông Cấn, Bút Than,Gan Dương Cốc, Nón Mỹ” (Nghĩa là: Chuông lớn ở Chùa Cấn Hữu, học giỏi ở Ngọc Than, anh hùng lì lợm ở Dương Cốc và nơi làm nón đẹp phải kể đến Phú Mỹ).

(Theo vi.wikipedia.org/wik)

Thơ: Đôi Mắt Người Sơn Tây (Quang Dũng)

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì

Vừng trán em vương trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương
Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương ?

Mẹ tôi, em có gặp đâu không ?
Bao xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng con bé dại
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông !

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn !
Đất đá ong khô nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan ?

Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngắm lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta ?

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

NHN) Cá chép, tên chữ Hán gọi là Lý ngư. Trong dân gian cá chép được coi là loài cá tôn quý, gắn với tích cá chép vượt vũ môn hóa thành rồng vào dịp tháng Ba: “Bao giờ cá chép hóa rồng/ Đền ơn cha mẹ bế bồng ngày xưa”

Cá chép cũng là vật linh, được nhân dân ta cung kính dâng lên tổ tiên, các vị thần thánh và Táo Quân vào dịp Tết ông Công ông Táo 23 tháng Chạp. Có biết bao thơ văn, tranh hoạ về đề tài cá chép. Dòng tranh dân gian Hàng Trống có tranh Lý Ngư vọng nguyệt nổi tiếng. Trong đông y, ăn cá chép kết hợp với các vị thuốc có thể chữa được một số bệnh như gan, thận, kể cả bệnh ung thư bởi cá chép bổ tì, lợi tiểu, tiêu phù, thông sữa, chữa ho, lở loét, bổ thai…

Cá chép được cho là một loài tôn quý

Với những người làm nghề chài lưới thì cá chép là giống mang lại điều may mắn, tốt lành. Thế nên đến dịp xuân về, khi những hạt mưa xuân lất phất rơi cũng là lúc cá chép vào bờ đẻ trứng và dân chài lưới, dân thuỷ cơ lại rủ nhau đi săn cá chép.

Cá chép thì nơi nào trên đất Việt Nam chẳng có. Nhưng chẳng ở đâu có giống cá chép đẹp và ngon như cá chép ở vùng Bương Cấn. Người dân nơi đây thường tự hào về giống chép quý quê mình bởi nó đẹp hơn cả cá chép trong tranh Lý ngư Vọng nguyệt. Theo cụ Sỹ Danh Tuyên 84 tuổi và cụ Cấn Văn Tính 75 tuổi người Cấn Xá Thượng thì giống cá ấy có đôi mắt rất to, màu hồng đỏ, vẩy cũng rất to, hình tròn, mềm, có ánh vàng lấp lánh.

Đặc biệt đầu cá chép có khuôn hình giống đầu rồng, béo múp, mang màu đỏ hồng, mình thuôn dài, da cá có màu vàng, đuôi màu đỏ hồng, ánh vàng nhũ. Dân Cấn Hữu còn gọi là cá Gáy. Cá nặng trung bình từ 2-3kg/con, con to nặng từ 5-7kg. Cá chỉ sống trong đầm lầy nước sâu, chỉ ăn cỏ, ăn rong, tắm bùn nên thịt rất ngon. Khi ăn, thịt cá béo mà không ngấy, mềm mà không nát và rất thơm nếu như không cho gia giảm.

Cá chép được chế biến thành nhiều món ngon, hấp dẫn

Cá được người Cấn Hữu chế biến thành nhiều món như cá rán, cá nấu (gồm nấu riêu, om dưa) và cá hấp. Ngon nhất là cá hấp vì nó giữ được hương vị thơm, béo, ngậy, ngọt đậm đà của cá. Cá thường được hấp bằng rượu nếp trắng. Dù hấp, dù rán, dù nấu riêu hay om dưa thì gia giảm không thể thiếu được cho cá chép đó là gừng và hành tăm, mà phải là loại gừng già và hành tươi mới ngon. Khi mổ cá, người ta phải mổ rất khéo sao cho ruột cá không vỡ. Bởi ruột cá chép Đầm Bung ngon, giòn, thơm, bùi, béo do các lá mỡ quấn quanh nên không ai vứt bỏ như cá chép thông thường. Vẩy cá cũng mềm và ngon nên ít khi người ta đánh vẩy mà để nguyên rồi chế biến.

Trước Cấn Hữu là một chằm lầy, trước núi ven sông. Chính địa thế ấy đã tạo ra nhiều đầm hồ, trong đó có một cánh đồng rộng lớn rất trũng lầy, gọi là Đầm Bung hay đồng Bung cũng thế. Đầm còn có tên gọi khác là cánh đồng Thập Cửu bởi có 19 làng của 2 huyện Quốc Oai, Chương Mỹ vây quanh, muốn qua đầm phải dùng đò di chuyển. Đầm Bung sâu đến nỗi người dân quanh vùng thường răn bảo nhau: “Con một thì chớ đi đò Đầm Bung”. Trong cánh đầm sâu và rộng ấy chỉ toàn cỏ lăn, cỏ lác mọc cao quá đầu người khiến cánh đầm trở nên huyền bí, xa vời. Dưới đầm sâu chỉ có cỏ chân vịt sống nên nước rất trong và ngọt.

Đầm Bung nước sâu nên khó đánh bắt vì vậy cá tôm ở đây rất nhiều. Nhất là khi mùa mưa đến nước sông Tích, sông Cấn gần đó tràn vào khiến lượng cá về đây nhiều vô kể. Dân Quốc Oai thường có câu ví: “Đòn Cấn Xá, cá Đầm Bung” (đòn Cấn Xá là đòn đánh võ hiểm hóc của dân Cấn Xá. Cá Đầm Bung là chỉ cá ở đây nhiều vô tận và ngon, nhất là loài cá chép sống trong đầm). Theo các cụ già ở Cấn Xá thì cá chép Đầm Bung chỉ ưa sống ở nước sâu và sạch, đẻ ít, khó nuôi, lại chỉ xuất hiện vào những ngày trời trong, nắng đẹp.

Cùng với 3 vật quý khác, cá chép Đầm Bung Cấn Hữu đã trở thành vật quý được bao đời nay truyền tụng: “Sài Sơn chi biển bức, Cấn Xá chi lý ngư, Khánh Hiệp chi kỳ bành, Linh Chiểu chi úng thái”(Dơi ngựa Sài Sơn, cá chép Cấn Xá (đều thuộc huyện Quốc Oai), cua đồng Khánh Hiệp, rau muống Linh Chiểu (của huyện Phúc Thọ)). Sách “Sơn Tây tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ khẳng định đó là tứ dị – 4 của ngon vật lạ của đất Sơn Tây dùng để cung tiến vua chúa.

Loài dơi quý ở Sài Sơn thịt rán thơm, ngon mà không cần ướp gia vị. Khi đặt miếng thịt dơi vào lưỡi cảm nhận có mùi thơm của quả chín. Thịt loài dơi này còn chữa được nhiều bệnh. Đây là loài dơi quý mà trong sách Đại Nam nhất thống chí có nói đến.

Cua Khánh Hiệp (thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ) sống ở gò Ma Khống. Cua đó mình to bằng cái bát ăn cơm, mai mầu vàng rộm. Mỗi năm, người ta chỉ thấy cua bò ra ngoài một lần vào một ngày bất thường. Nên ai trông thấy phải thông báo để mọi người đến bắt đem tiến vua.

Rau muống tiến vua ở Linh Chiểu (Phúc Thọ) được trồng một cách độc đáo: Người ta bắt những con ốc to đem về làm cho ốc chết, rồi cấy mầm rau muống vào từng con ốc đó. Mầm rau muống sống lớn lên nhờ chất của con ốc. Khi rau muống dài độ một gang tay thì người ta mang những con ốc – rau muống (để nguyên như thế) đem tiến vua.

Lại nói về vùng Bương Cấn. Trải qua bao đời, những cánh đồng bát ngát mênh mông ở đây vẫn còn, nhưng không lầy trũng như trước đây. Đầm Bung vẫn lớn rộng nhưng đã khô cạn gần hết do quai đê, lấp đi sông Cấn, sông Tích thì lùi xa. Đầm Bung giờ có thể cầy cấy, làm trang trại, đem lại nguồn lương thực và thu nhập đáng kể cho địa phương. Tiếc thay, giống cá chép quý cũng lâu lắm rồi không thấy, chỉ còn lại trong kí ức người dân, để mỗi khi qua chợ Bương, đồng Bương, đồng Bung của Kẻ Bương, Kẻ Cấn Quốc Oai, du khách lại bồi hồi nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Quang Dũng: “Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn/ Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng/ Sông Đáy chậm nguồn quanh phủ Quốc/ Đêm trăng vi vút sáo diều bay

Thanh Quy